Ảnh minh họa |
Theo khảo sát của Hiệp hội DN Logistics Việt Nam (VLA), đại dịch COVID-19 đã khiến nhiều DN sụt giảm doanh thu từ 10 - 30% so với cùng kỳ năm trước và buộc phải áp dụng những cách thức hoạt động mới, từ đó định vị lại qua chuyển đổi số.
Ông Nguyễn Tương, Phó Tổng Thư ký VLA nhận xét khi đại dịch COVID-19 bùng phát, các DN logistics phải đối mặt với tình trạng đơn hàng ít, doanh thu sụt giảm.
Đường 1 chiều
Thị trường logistics đang thu hút trên 4.000 DN, tập trung chủ yếu ở Hà Nội và TPHCM. Trong đó, có khoảng 30 DN cung cấp dịch vụ logistics xuyên quốc gia đang hoạt động tại Việt Nam. Để tồn tại, các DN buộc phải tái cấu trúc, tận dụng lợi thế của công nghệ số tạo nên thay đổi lớn về sản lượng, năng suất.
Một nghiên cứu của VLA cho thấy, tỷ lệ chi phí logistics so với GDP quốc gia của Việt Nam là 18%, trong khi con số này ở các nước phát triển chỉ 9-14%. Trong tổng chi phí logistics thì chi phí vận tải chiếm 60%, chi phí xếp dỡ chiếm 21%, chi phí kho bãi chiếm 12%...
Chi phí logistics của Việt Nam vẫn còn khá cao so với các quốc gia như Trung Quốc, Thái Lan, Nhật Bản và khối EU do hạn chế về kết cấu hạ tầng cảng biển gắn liền với dịch vụ sau cảng; công tác quy hoạch hạ tầng logistics, gồm cảng biển, cảng cạn, trung tâm logistics, depot, bãi đậu xe tải, xe container… chưa hiệu quả. Do đó, ứng dụng công nghệ số hóa là yêu cầu cần thiết để cắt giảm chi phí. Đây là con đường một chiều mà các DN không thể lựa chọn khác nếu muốn tồn tại, phát triển.
Tuy nhiên, đa phần các DN logistics của Việt Nam vẫn chưa đầu tư đúng mức cho công nghệ, dẫn tới cạnh tranh vất vả với các DN nước ngoài. Điển hình như hệ thống cảng của Việt Nam, với 281 cảng trải dài khắp lãnh thổ có tổng công suất trên 550 triệu tấn/năm, hệ thống cảng có tiềm năng khai thác rất lớn nhưng chưa được đầu tư bài bản về ứng dụng công nghệ thông tin vào khai thác sản xuất. Do chưa ứng dụng công nghệ phần mềm hiện đại vào vận hành cảng, chủ yếu dùng nhân công kết hợp với một số phần mềm đơn giản và riêng lẻ để giải quyết các vấn đề liên quan tới nghiệp vụ khai thác cảng nên các cảng không thể tối ưu hóa khả năng lưu chuyển hàng hóa, gây chậm trễ và tắc nghẽn.
Trong lĩnh vực giao nhận, Tổng công ty Bưu điện Việt Nam (Vietnam Post) đang sở hữu mạng lưới lớn nhất với gần 900 bưu cục phát được tổ chức tại các trung tâm tỉnh, thành phố, quận, huyện khắp cả nước, hơn 1.750 bưu cục cấp 3 quản lý tuyến phát tại khu vực phường, xã và gần 24.800 tuyến phát khắp cả nước để thực hiện phát hàng hóa tại địa chỉ khách hàng. Tuy nhiên, trong cơn lốc phát triển của công nghệ, mạng lưới rộng lớn vốn là thế mạnh của Vietnam Post lại đang dần trở thành gánh nặng, trong khi nhiều đơn vị không có hạ tầng nhưng đã phát triển nhanh chóng trong thời gian qua.
Hiệu quả của việc ứng dụng công nghệ thông tin vào logistics đã được chứng minh trong thực tế. Điển hình như hệ thống cảng biển Singapore và Hong Kong (Trung Quốc) - những nơi đã và đang thống trị trong danh sách những cảng biển container nhộn nhịp nhất thế giới, ưu tiên ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý và khai thác cảng biển từ rất sớm.
Hay Công ty Tân cảng Sài Gòn, sau khi áp dụng thành công các chương trình quản lý, điều hành sản xuất tiên tiến, đã giảm 55% thời gian tàu nằm bến; giảm 3/4 thời gian giao nhận hàng hóa; giảm 60% các vụ việc mất an toàn lao động, an toàn giao thông…
Còn Vietnam Post đang xây dựng nền tảng bản đồ Vmap và cơ sở dữ liệu địa chỉ theo thời gian thực về định vị, dữ liệu về địa chỉ, gán mã cho địa chỉ đến hộ gia đình. Nền tảng mã địa chỉ bưu chính có khả năng số hóa, định vị chính xác vị trí địa chỉ của khách hàng nhằm cung cấp thông tin cho DN trong các ngành, lĩnh vực, dịch vụ cần "tìm" khách hàng. Giải pháp này góp phần tối ưu hóa việc vận chuyển, giao nhận hàng hóa từ người gửi đến người nhận của DN bưu chính, vận tải, logistics, thương mại điện tử… nâng cao hiệu quả sản xuất, giảm chi phí và tăng cường tính cạnh tranh của DN.
Dù đã được diễn ra từ vài năm trở lại đây nhưng xu hướng số hóa trong logistics lại càng được đẩy mạnh hơn trong đại dịch COVID-19. Việc xây dựng các sàn thương mại điện tử, triển khai các giải pháp về lệnh giao hàng điện tử sẽ mang lại cơ hội cho DN trong bối cảnh đại dịch COVID-19 vẫn đang diễn biến phức tạp trên thế giới.
“Chuyển đổi số giúp các DN tham gia vào chuỗi cung ứng lớn hơn, nhưng để thành công phải có sự cam kết, quyết tâm từ lãnh đạo để gây dựng được văn hóa DN tạo nên nhận thức việc chuyển đổi số là tất yếu”, ông Nguyễn Tương chia sẻ.
Cơ hội từ những “cao tốc” FTA
Bên cạnh cơ hội đến từ logistics cho thương mại điện tử, ông Nguyễn Tương cho rằng những hiệp định thương mại tự do (FTA) mới được Việt Nam ký kết với những đối tác thương mại lớn như Liên minh châu Âu (EVFTA) mang lại nhiều thuận lợi cho ngành dịch vụ logistics, là đòn bẩy tăng trưởng quan trọng sau đại dịch COVID-19
Những hiệp định như EVFTA sẽ là cú hích cho hoạt động sản xuất và xuất nhập khẩu của Việt Nam. Khi hoạt động sản xuất và xuất nhập khẩu phát triển thì sẽ kéo theo sự phát triển của ngành logistics.
Những phần việc mà các tập đoàn logistics lớn trên thế giới không làm khi thâm nhập thị trường Việt Nam sẽ là cơ hội cho DN Việt, nhất là những việc vận tải, giao nhận và thủ tục hải quan trong nước.
Bên cạnh đó, với cam kết loại bỏ thuế quan của Việt Nam cho phương tiện vận tải, các loại máy móc, thiết bị công nghệ phục vụ hoạt động logistics từ EU là cơ hội để DN logistics trong nước có thể mua những sản phẩm phục vụ sản xuất với giá hợp lý, tiết kiệm chi phí sản xuất, cải thiện năng lực công nghệ, tăng cường năng lực tự thực hiện, giảm các dịch vụ thuê ngoài.
Tuy nhiên, cơ hội lớn luôn song hành cùng thách thức. Độ mở của nền kinh tế Việt Nam đồng nghĩa với việc các DN trong nước phải tham gia vào cuộc đua căng thẳng với những tập đoàn logistics lớn trên thế giới có trình độ cao hơn và vốn mạnh hơn nhiều. Vì thế, nếu không biết chắt chiu cơ hội, DN logistics Việt Nam sẽ không giành được lợi thế.
Minh Khôi
Link nguồn: http://baochinhphu.vn/Doanh-nghiep/COVID19-buoc-DN-logistics-dinh-vi-lai-bang-chuyen-doi-so/408439.vgp