Kinh tế và doanh nghiệp hưởng lợi gì khi Việt Nam tham gia RCEP?

Dự kiến có hiệu lực đầu năm 2022, Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) được kỳ vọng trở thành xung lực mới cho nền kinh tế và các doanh nghiệp (DN) Việt Nam để có thể phục hồi và tăng trưởng sau đại dịch. Tuy nhiên, bên cạnh cơ hội, RCEP cũng mang đến những thách thức không nhỏ đối với nền kinh tế nói chung và DN nói riêng.
Tác động tích cực không chỉ đến kinh tế
RCEP là một FTA thế hệ mới có quy mô lớn nhất thế giới với 15 thành viên, trong đó có 10 nước ASEAN và 5 đối tác lớn là Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc và New Zealand. Thương mại giữa Việt Nam với các đối tác RCEP chiếm 55% tổng thương mại của Việt Nam năm 2020.
Các nước thành viên RCEP có trình độ phát triển đa dạng nhất với sự tham gia của các nền kinh tế hàng đầu thế giới (Trung Quốc, Nhật Bản) và các nước kém phát triển (Lào, Campuchia, Myanmar). Khi được thực thi, hiệp định này sẽ tạo thành khu vực thương mại tự do lớn nhất thế giới, chiếm khoảng 30% dân số thế giới và 30% GDP toàn cầu.
Tại Hội thảo “Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) – Những điều doanh nghiệp cần biết” do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Viện Nghiên cứu Quản lý Trung ương (CIEM) tổ chức ngày 5/11, đánh giá những tác động tích cực của RCEP đối với kinh tế Việt Nam, ông Nguyễn Anh Dương - Trưởng Ban Nghiên cứu tổng hợp của CIEM cho biết, tham gia các FTA nói chung, Việt Nam có thêm cơ hội xuất khẩu và gia tăng thu nhập.
"RCEP quan trọng hơn ở chỗ, Việt Nam đã có kinh nghiệm thực hiện và khai thác thị trường thông qua các điều khoản FTA của ASEAN + 1. Với các đối tác trong RCEP, Việt Nam đều đã có FTA của ASEAN, thậm chí còn có một số FTA song phương. Vì vậy Việt Nam đã có kinh nghiệm thực hiện và khai thác thị trường thông qua các điều khoản FTA", ông Dương chia sẻ.
Ông Nguyễn Anh Dương - Trưởng Ban Nghiên cứu tổng hợp của CIEM.
Theo chuyên gia này, trong bối cảnh COVID-19 chúng ta phải tìm kiếm cơ hội xuất khẩu sang nhiều thị trường. Và một trong những thị trường tiềm năng nhất là những thị trường phục hồi sớm nhất sau đại dịch. Trung Quốc là một trong những nền kinh tế vừa lớn, vừa phục hồi sớm.
Những đánh giá của các chuyên gia về mô hình định lượng, RCEP ngay cả với kịch bản không còn Ấn Độ cũng đều mang lại lợi ích cho các nền kinh tế thành viên, trong đó có Việt Nam.
"RCEP mang lại những tác động tích cực đến tăng trưởng xuất khẩu của các quốc gia thành viên, kể cả trong điều kiện chưa có Ấn Độ gia nhập và kể cả trước đại dịch COVID-19. Còn trong bối cảnh dịch bệnh, rõ ràng nhu cầu phục hồi kinh tế, nhu cầu tìm kiếm từng điểm phần trăm về tăng trưởng xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế quan trọng hơn. Như vậy, việc gia nhập RCEP và thực thi RCEP có ý nghĩa hơn rất nhiều", ông Dương nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, ông Dương cho rằng, những lợi ích do hiệp định mang lại nó không chỉ đơn thuần là lĩnh vực kinh tế. Một nội dung quan trọng khác là phát huy vai trò trung tâm của ASEAN trong các sáng kiến khu vực. Và RCEP là một minh chứng rõ nhất về ASEAN kiên trì thúc đẩy định hướng và phối hợp với các đối tác để cùng xây dựng mục tiêu chung, gắn với câu chuyện hài hòa quy tắc xuất xứ, hài hòa các FTA hiện có của ASEAN với từng đối tác.
Thêm vào đó, lợi ích về chiến lược của RCEP rất quan trọng khi nó tạo cho Việt Nam và các nước ASEAN tham gia cuộc chơi trong khu vực và quốc tế. Đối với Việt Nam, hiện đã có cả CPTPP, RCEP, rõ ràng đây là cơ hội về chiến lược để tham gia xây dựng những luật chơi về thương mại ở khu vực và gắn với lợi ích của DN.
Ở góc độ vi mô, theo bà Nguyễn Thị Thu Trang - Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập của VCCI, RCEP là FTA thu hút sự quan tâm đặc biệt của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam thời gian qua. Lợi ích được nhấn mạnh trong RCEP là cơ hội cho chúng ta tăng cường xuất nhập khẩu cũng như tham gia vào chuỗi sản xuất và cung ứng trong khu vực RCEP.
Nhờ vào việc hài hòa quy tắc xuất xứ trong Hiệp định RCEP, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam có thể tăng khả năng đáp ứng điều kiện để hưởng ưu đãi thuế quan do nguồn cung nguyên liệu đầu vào chủ yếu đều nằm trong RCEP nhằm gia tăng khả năng xuất khẩu trong khu vực này, đặc biệt ở các thị trường lớn như Nhật Bản, Úc, New Zealand và Hàn Quốc.
Thách thức xử lý nhập siêu
Bên cạnh những cơ hội, ông Nguyễn Anh Dương nhìn nhận, RCEP kéo theo một số thách thức về thương mại.
Một trong những thách thức lớn nhất mà nhiều người hay nhắc tới là làm sao để xử lý nhập siêu. Nếu không xử lý bài bản việc nhập siêu hoặc không kiếm được nguồn thặng dư từ những thị trường khác thì rõ ràng ảnh hưởng đến áp lực về tỷ giá và đối với DN xuất khẩu. Và câu chuyện tỷ giá có thể ảnh hưởng đến doanh thu của DN.
Ngoài ra, ông Dương cho biết, việc phải cạnh tranh với các đối tác khác hay mức độ tự chủ trong chuỗi giá trị, khả năng thích ứng với những quy định ở thị trường RCEP để tận dụng các cơ hội xuất khẩu cũng là thách thức không nhỏ. Thêm vào đó là yêu cầu cao hơn đối với sản phẩm nông, thủy sản nhập khẩu vào thị trường Trung Quốc.
Theo đánh giá của Trưởng Ban Nghiên cứu tổng hợp CIEM, việc ứng phó với các rào cản, quy định mới là không dễ. DN sẽ khó phát triển nếu không chủ động nâng cao nhận thức, thói quen tìm hiểu thị hiếu và quy định của thị trường Trung Quốc. DN cũng khó phát triển nếu không điều chỉnh chiến lược kinh doanh phù hợp, gắn với đề xuất hỗ trợ (không trái cam kết) từ các Bộ, ngành và cơ quan địa phương; cũng như không chủ động kiến nghị, tháo gỡ những bất cập chính sách (bởi cơ quan nhà nước khó tự rà soát hết được).
Cùng đánh giá về những thách thức, Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập của VCCI cho rằng, có một số quan ngại liên quan đến việc hiện RCEP là nguồn cung cho 70% kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam.
Bà Nguyễn Thị Thu Trang - Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập của VCCI.
"Do đó, việc chúng ta mở cửa, có những con đường thuận lợi hơn và dễ dàng hơn lựa chọn cho các DN, cho nền kinh tế với các nước RCEP cũng đồng thời tiềm ẩn trong đó nguy cơ ở góc độ vĩ mô là nhập siêu có thể tăng lên và điều này có thể ảnh hưởng tới nhiều yếu tố vĩ mô khác", bà Trang phân tích.
Nữ chuyên gia này cho biết, các DN nào hiện đang sản xuất và hoạt động kinh doanh lấy thị trường nội địa làm mục tiêu thì RCEP cũng có thể tạo ra những thách thức về cạnh tranh khi hàng các nước có thêm con đường nhập khẩu thuận lợi hơn vào Việt Nam. Đây là điều các DN cần lưu ý bởi vì cơ hội đi kèm thách thức.
Thực tế, quá trình thực hiện 14 FTA đã có hiệu lực của Việt Nam cho thấy một trong những lý do mà nhiều cơ hội FTA đã bị bỏ lỡ là do các doanh nghiệp chưa biết đến hoặc chưa hiểu rõ về các cam kết FTA. Theo một khảo sát của VCCI năm 2020, tỷ lệ hiểu biết ở mức tương đối về các cam kết FTA của các doanh nghiệp Việt Nam trung bình chỉ đạt 23%. Các cam kết FTA, đặc biệt là các FTA thế hệ mới như RCEP thường không dễ tìm hiểu do số lượng các cam kết đồ sộ, nội dung phức tạp.
Từ những thách thức trên, bà Trang khuyến nghị, doanh nghiệp cần hiểu về Hiệp định, tiến trình, các cam kết cụ thể cũng như các tác động dự kiến của các cam kết để có thể tận dụng được các cơ hội kỳ vọng từ RCEP.
Trong khi đó, ở góc độ vĩ mô, theo ông Dương, muốn thực hiện hiệu quả RCEP cần tránh rơi vào tình trạng tiếp cận linh hoạt với FTA tiêu chuẩn cao và tiếp cận cứng nhắc với RCEP; hài hòa bộ ba chính sách công nghiệp – chính sách đầu tư – chính sách thương mại; ứng xử với dòng vốn đầu tư nước ngoài nên dựa vào tiêu chuẩn chứ không dựa vào tên đối tác...
Thu An