Cần tận dụng các giải pháp công nghệ để quản lý thuế thu nhập từ Facebook, YouTube, Google...

Theo quy định mới, những tổ chức là đối tác tại Việt Nam của các nhà cung cấp nền tảng số ở nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam (có thỏa thuận thực hiện chi trả thu nhập cho cá nhân có thu nhập từ sản phẩm, dịch vụ nội dung thông tin số thông qua tổ chức đối tác tại Việt Nam) thì phải khai và nộp thay cho cá nhân trên toàn bộ doanh thu hợp tác kinh doanh.

photo1624582670344-16245826705371530433766-1624584730.gif

Như BizLIVE mới đây đã thông tin , Bộ Tài chính vừa chính thức ban hành Thông tư 40/2021/TT-BTC hướng dẫn thuế giá trị gia tăng (GTGT), thuế thu nhập cá nhân (TNCN) và quản lý thuế đối với hộ kinh doanh , cá nhân kinh doanh .

So với các quy định hiện hành, Thông tư số 40/2021/TT-BTC đã bổ sung thêm nhiều nhóm đối tượng vào diện quản lý và thực thi.

Trong đó, một nội dung được sự quan tâm khá lớn của dư luận thời gian qua là hoạt động quản lý, thu thuế GTGT, thuế TNCN với: Hộ kinh doanh, cá nhân hoạt động thương mại điện tử, bao gồm cả cá nhân có thu nhập từ sản phẩm, dịch vụ nội dung thông tin số; Người chuyển nhượng tên miền “.vn”.

Cá nhân có doanh thu từ Facebook , Google cần chọn hình thức kê khai, đóng thuế

Theo Thông tư 40, ngoài quy định sàn thương mại điện tử phải kê khai và thu thuế thay cho các cá nhân bán hàng trên sàn đang được quan tâm, Thông tư cũng mở rộng phạm vi điều chỉnh với những cá nhân có phát sinh thu nhập trên môi trường mạng như chuyển nhượng tên miền hay thu nhập từ các nền tảng số.

Cụ thể, từ ngày 1/8 tới, các đối tượng là cá nhân chuyển nhượng tên miền Internet quốc gia Việt Nam “.vn” và cá nhân có thu nhập từ sản phẩm, dịch vụ nội dung thông tin số nhưng không lựa chọn nộp thuế theo phương pháp kê khai sẽ thực hiện nộp thuế theo từng lần phát sinh.

Theo quy định mới, những tổ chức là đối tác tại Việt Nam của các nhà cung cấp nền tảng số ở nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam (có thỏa thuận thực hiện chi trả thu nhập cho cá nhân có thu nhập từ sản phẩm, dịch vụ nội dung thông tin số thông qua tổ chức đối tác tại Việt Nam) thì phải khai và nộp thay cho cá nhân trên toàn bộ doanh thu hợp tác kinh doanh.

Quy định này tương tự như việc sàn thương mại điện tử phải kê khai và đóng thuế thay cho cá nhân bán hàng hay các nền tảng gọi xe phải kê khai đóng thuế thay cho tài xế.

Doanh thu tính thuế là số tiền mà cá nhân nhận trực tiếp từ YouTube hoặc số tiền nhận từ đối tác là các mạng đa kênh (đối tác của YouTube tại Việt Nam) không được trừ chi phí trước khi tính thuế do không phải là doanh nghiệp.

Đối với cá nhân có thu nhập từ sản phẩm, dịch vụ nội dung thông tin số thì thời điểm xác định doanh thu tính thuế là thời điểm cá nhân thực nhận thu nhập. Theo đó, mức thuế phải nộp là 7%, trong đó thuế GTGT là 5% và thuế TNCN 2%.

Thu thuế nghìn tỷ mỗi năm từ Facebook, Google: Mới như “muối bỏ bể”

Trên thực tế, việc cá nhân kiếm tiền từ các nền tảng xuyên biên giới như Google, Facebook hay Apple phải nộp thuế không phải là quy định mới.

Theo quy định tại Thông tư 92/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính, các cá nhân có phát sinh thu nhập từ Google, Facebook, YouTube… trên 100 triệu đồng/năm phải nộp thuế với mức thuế suất 5% thuế GTGT và 2% thuế TNCN dựa trên doanh thu tính thuế.

Đầu năm 2021, trong một buổi thông tin với báo chí, ông Đặng Ngọc Minh - Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế cho biết: Năm 2019 và 2020, số tiền thuế thu được từ các cá nhân có thu nhập từ hoạt động kinh doanh qua Google, Facebook đạt trên dưới 1.000 tỷ đồng mỗi năm.

Trong số trên, có các trường hợp tự kê khai thuế, cơ quan thuế hỗ trợ họ kê khai thuế, có trường hợp cơ quan thuế áp dụng các biện pháp nghiệp vụ để truy vết, xác minh và truy thu thuế.

Riêng tại Hà Nội, từ năm 2017 đến cuối năm 2020, cơ quan thuế đã rà soát và gửi tin nhắn thông báo, hướng dẫn tới hơn 13.400 chủ tài khoản Facebook có các hoạt động kinh doanh bán hàng qua mạng.

Theo dữ liệu cùng thời điểm của các NHTM, riêng Hà Nội đã có 18.304 cá nhân, tổ chức cá nhân đã nhận được số tiền từ Google và Facebook, Youtube là 1.462 tỷ đồng.

Đồng thời, ông Minh cũng khẳng định: "Chắc chắn thu từ lĩnh vực này sẽ là nguồn thu phát triển mạnh trong thời gian tới".

Trước đó, theo báo cáo của Tổng cục Thuế, năm 2019, các doanh nghiệp, tổ chức Việt Nam ký hợp đồng quảng cáo, sử dụng dịch vụ trên mạng với tổ chức nước ngoài và đã khấu trừ nộp thay cho các tổ chức nước ngoài với tổng số thuế gần 1.168 tỷ đồng (trong đó thuế giá trị gia tăng là là hơn 539 tỷ đồng, thuế thu nhập doanh nghiệp là hơn 628,7 tỷ đồng).

Còn năm 2018 các doanh nghiệp, tổ chức Việt Nam ký hợp đồng quảng cáo, sử dụng dịch vụ trên mạng với tổ chức nước ngoài và đã khấu trừ nộp thay cho các tổ chức nước ngoài với tổng số thuế hơn 770,6 tỷ đồng (trong đó thuế giá trị gia tăng là hơn 353,4 tỷ đồng, thuế thu nhập doanh nghiệp là hơn 417,1 tỷ đồng).

Lãnh đạo ngành thuế trong nhiều cuộc trao đổi với báo chí đều khẳng định sẽ siết chặt các hoạt động thương mại điện tử xuyên biên giới đồng thời tăng cường quản lý thuế với cá nhân có thu nhập từ Google, Facebook, YouTube... Thậm chí, với những cá nhân cố tình chây ỳ, không nộp thuế sẽ bị phạt nặng, thậm chí bị xử lý hình sự.

Góc nhìn của chuyên gia WB về quản lý thuế với hoạt động kinh doanh trên nền tảng số

Tổng cục Thuế nhìn nhận, việc quản lý thuế GTGT, thuế TNCN và quản lý thuế đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh trên nền tảng số là một lĩnh vực khá mới tại Việt Nam.

Do đó, để làm rõ những quy định cơ bản, liên quan và kinh nghiệm một số quốc gia trên thế giới đã áp dụng công tác quản lý thuế trong lĩnh vực này, ngành thuế đã tham vấn ý kiến của ông Nguyễn Việt Anh, Chủ nhiệm các dự án hỗ trợ kỹ thuật về cải cách thuế tại Việt Nam thuộc Ngân hàng Thế giới (WB).

Theo ông Việt Anh, việc quản lý thuế đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh qua các sàn giao dịch điện tử (TMĐT) được thực hiện thông qua đầu mối Tổ chức là chủ các sàn giao dịch thương mại điện tử khai thuế thay, nộp thuế thay theo tháng hoặc quý.

Theo đó, các sàn giao dịch TMĐT có nghĩa vụ khấu trừ và nộp thuế thay cho cá nhân, hộ kinh doanh.

Cần tận dụng các giải pháp công nghệ để quản lý thuế thu nhập từ Facebook, YouTube, Google... - Ảnh 2.

Ông Nguyễn Việt Anh, chuyên gia cao cấp của Ngân hàng Thế giới (World Bank).

Trên góc độ kinh nghiệm quốc tế, cách thức quy định nêu trên được áp dụng phổ biến trong việc quản lý thuế GTGT đối với các nhà cung cấp nước ngoài có giao dịch trên các sàn TMĐT hoặc các nền tảng số.

Do đó, nghĩa vụ kê khai, nộp thuế GTGT đối với các giao dịch qua sàn TMĐT hoặc nền tảng số thuộc về các sàn TMĐT hoặc các nền tảng số này. Việc quy định như vậy sẽ giúp giảm rất nhiều gánh nặng tuân thủ đối với các nhà cung cấp, cũng như nâng cao hiệu suất, hiệu quả hoạt động của cơ quan quản lý thuế.

Còn đối với việc quản lý thuế đối với các cá nhân kinh doanh hoạt động trên các sàn giao dịch TMĐT, các nền tảng số, phương thức này được áp dụng hạn chế hơn. Bởi lẽ, hầu hết các quốc gia đánh thuế thu nhập kinh doanh thuần của các cá nhân chứ không phải đánh thuế dựa trên doanh thu.

Trong bối cảnh của các quốc gia này, việc áp thuế đối với doanh thu ảnh hưởng bất lợi đến dòng tiền của các cá nhân kinh doanh vì thực tế thu nhập của họ biến động không tỷ lệ thuận với doanh thu bán hàng.

Tuy nhiên, chuyên gia của WB cũng cho biết, vì Việt Nam tính thuế TNCN đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh dựa trên doanh thu nên những bất lợi này không phát sinh.

Vị này đánh giá việc sử dụng cơ chế khấu trừ thuế thông qua các nền tảng và sàn TMĐT trong điều kiện thực tế của Việt Nam là phù hợp, vì cơ chế này sẽ tăng cường tính tuân thủ, cũng như giảm gánh nặng hành chính đối với người nộp thuế và giảm chi phí quản lý đối với cơ quan thuế.

Thực tiễn thế giới cũng cho thấy một số quốc gia áp dụng cơ chế này đối với người nộp thuế trong nước. Chẳng hạn, thuế dịch vụ kỹ thuật số của Thổ Nhĩ Kỳ cũng áp dụng đối với các doanh nghiệp trong nước. Bỉ và Uruguay cũng áp dụng cơ chế thuế khấu trừ tại nguồn đối với các hợp đồng biểu diễn hoặc nền kinh tế chia sẻ.

Thực tế cho thấy, để hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh trên nền tảng thương mại điện tử, nhiều doanh nghiệp, cá nhân đã và đang sử dụng các công cụ giám sát hoạt động trên mạng xã hội để tìm hiểu khách hàng phản hồi như thế nào về cửa hàng của mình, cũng như tìm hiểu về các đối thủ cạnh tranh.

Do đó, vị chuyên gia cao cấp của WB đưa ra khuyến nghị, cơ quan quản lý thuế có thể cân nhắc hợp tác với các công ty cung cấp giải pháp công nghệ này. Qua đó, xây dựng các công cụ phục vụ công tác quản lý thuế, giúp phát hiện các cá nhân có dấu hiệu kinh doanh trên mạng xã hội để so sánh, đối chiếu với dữ liệu đăng ký thuế của cơ quan quản lý.

Theo phân loại thông thường, hiện hoạt động kinh doanh thương mại điện tử có thể phân làm 3 nhóm lớn, gồm: Bán hàng thông qua trang mạng xã hội (bán hàng online); Thu nhập phát sinh thông qua hoạt động viết các ứng dụng, trò chơi và hưởng thu nhập từ quảng cáo qua các trang mạng xã hội (Facebook, Youtube...); Các tổ chức, gia đình có hoạt động cho thuê nhà thông qua các trang mạng điện tử (Agoda, Booking...).

Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 có hiệu lực từ ngày 1/7/2020 cũng đã bổ sung những quy định liên quan đến quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử.

Cụ thể, Luật Quản lý thuế đã quy định rõ, đối với hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh dựa trên nền tảng số và các dịch vụ khác được thực hiện bởi nhà cung cấp ở nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam thì nhà cung cấp ở nước ngoài có nghĩa vụ trực tiếp hoặc ủy quyền thực hiện đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế tại Việt Nam theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tài chính.

Đây là nội dung hoàn toàn mới và lần đầu tiên được quy định trong pháp luật quản lý thuế.

Theo Tuấn Việt

BizLive