Căn cứ khoản 7 Điều 26 Luật Nhà ở 2014 và khoản 4 Điều 13 Luật Kinh doanh bất động sản 2014, trong thời hạn 50 ngày, kể từ ngày bàn giao nhà ở cho người mua thì chủ đầu tư phải làm thủ tục đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận cho người mua, trừ trường hợp người mua tự nguyện thực hiện.
Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi chủ đầu tư chậm thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận thì người mua làm đơn kiến nghị với thanh tra xây dựng hoặc UBND cấp có thẩm quyền để xử lý hành vi vi phạm của chủ đầu tư.
Việc xử phạt với chủ đầu tư được căn cứ điều 31 Nghị định 91/2019/NĐ-CP.
Theo đó, nếu vi phạm từ 12 tháng trở lên, chủ đầu tư bị phạt 100-300 triệu đồng với vi phạm dưới 30 căn hộ, công trình xây dựng, thửa đất), 300-500 triệu đồng với vi phạm từ 30 đến dưới 100 căn hộ, công trình xây dựng, thửa đất, từ 500 triệu đồng đến một tỷ đồng với trường hợp vi phạm từ 100 căn hộ, công trình xây dựng, thửa đất trở lên.
Ngoài ra, chủ đầu tư còn bị buộc nộp hồ sơ hoặc cung cấp đầy đủ giấy tờ cho người mua, thuê mua nhà, công trình xây dựng, người nhận chuyển quyền sử dụng đất tự nộp hồ sơ để làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận theo quy định.
Mức phạt tiền từ 100 triệu đồng, thẩm quyền xử phạt có thể thuộc về một trong số những cơ quan sau: Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Trưởng đoàn thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường; Chánh Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tổng cục trưởng Tổng cục Quản lý đất đai; Chánh Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tổng cục trưởng Tổng cục Quản lý đất đai; Thanh tra chuyên ngành xây dựng.
Nếu trong hợp đồng có điều khoản phạt vi phạm khi chậm thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận hoặc người mua có thiệt hại do hành vi chậm thực hiện thì yêu cầu chủ đầu tư thực hiện theo điều khoản đã thỏa thuận hoặc khởi kiện.
Hoàng Mai
Link nguồn: https://www.nguoiduatin.vn/phai-lam-gi-khi-chung-cu-bi-cham-cap-so-hong-a491090.html