Theo báo cáo kiểm toán năm 2021, Kiểm toán Nhà nước đã kiểm toán BCTC, các hoạt động liên quan đến quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước năm 2020 của Ngân hàng Nhà nước và 9 tổ chức tài chính, ngân hàng, bảo hiểm. Kết quả kiểm toán cho thấy:
Năm 2020, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt góp phần kiểm soát lạm phát ở mức 3,23%, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, ổn định thị trường tiền tệ và ngoại hối; nhiều lần điều chỉnh giảm lãi suất. Các tổ chức tài chính, ngân hàng, bảo hiểm được kiểm toán đảm bảo các chỉ tiêu an toàn trong hoạt động, kinh doanh có lãi, tỷ lệ nợ xấu nội bảng dưới 2% (trừ PGB 2,49%).
Song, mức giảm lãi xuất cho vay bình quân chậm hơn mức giảm lãi suất tiền gửi bình quân, chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi duy trì ở mức cao như tháng 1/2020 là 4,12%; tháng 12/2020 là 4,61%. Ngân hàng TMCP Đại chúng Việt Nam tăng trưởng tín dụng vượt mức tối đa cho phép của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là vượt 3.318 tỷ đồng.
Một số đơn vị đầu tư tài chính không hiệu quả hoặc hiệu quả thấp như Ngân hàng Công Thương Việt Nam (NHCT): Chi nhánh NHCT tại Cộng hoà Liên bang Đức lỗ luỹ ký 16,2 triệu EURO (426 tỷ đồng), Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam: Chưa thu được khoản đầu tư tiền gửi 330 tỷ đồng/580 tỷ đồng tại Công ty CP Tài chính Handico từ năm 2011.
Chưa xử lý dứt điểm một số khoản công nợ như không phải trả 907.461,13 EURO không có hồ sơ chi tiết. NHCT chưa nộp NSNN khoản thu hồi được từ nợ ngoại bảng đã được loại trừ không tính vào giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hoá như NHCT 76 tỷ đồng, BIDV 34 tỷ đồng, VCB 1,16 tỷ đồng.
Quản lý, sử dụng đất vẫn còn một số hạn chế, trong đó Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam (NHHTX) còn 3 thửa đất (diện tích 1.698,3 m2) đang để trống chưa sử dụng; NHCT chưa hoàn thành. Việc lập báo cáo kê khai đối với tất cả các cơ sở nhà, đất đang quản lý, sử dụng thuộc phạm vi phải sắp xếp lại, xử lý theo quy định.
Một số ngân hàng phân loại nợ chưa phù hợp, ngoại trừ các trường hợp năm 2021 các ngân hàng đã phân loại vào nhóm nợ cao hơn hoặc đã tất toán nợ vay nên KTNN không điều chỉnh nhóm nợ tại (tại PGB: không điều chỉnh dư nợ nhóm 1 là 622,46 tỷ đồng; tăng dự nợ nhóm 2 là 132,43 tỷ đồng, nhóm 3 là 275,02 tỷ đồng, nhóm 4 13,18 tỷ đồng, nhóm 5 là 201,83 tỷ đồng; tại NHCT: Không điều chỉnh giảm dự nợ nhóm 1 là 7.197,01 tỷ đồng, tăng dư nợ nhóm 2 là 2.735,56 tỷ đồng, nhóm 3 là 3.677,05 tỷ đồng, nhóm 4 là 384,51 tỷ đồng, nhóm 5 là 399,89 tỷ đồng; tại NHHTX: Không điều chỉnh giảm dư nợ nhóm 1 là 245,8 tỷ đồng; tăng dư nợ nhóm 2 là 0,46 tỷ đồng, nhóm 3 16,02 tỷ đồng, nhóm 4 là 26,96 tỷ đồng, nhóm 5 là 202,36 tỷ đồng), kết quả kiểm toán còn điều chỉnh nhóm nợ tại PGB: Giảm dư nợ nhóm 1 là 45,49 tỷ đồng; tăng dư nợ nhóm 2 là 34,07 tỷ đồng, nhóm 3 là 9,62 tỷ đồng, nhóm 4 là 0,35 tỷ đồng, nhóm 5 là 1,45 tỷ đồng; NHCT: giảm dự nợ nhóm 1 243,94 tỷ đồng, tăng dư nợ nhóm 2 166,10 tỷ đồng, nhóm 3 là 34,72 tỷ đồng, nhóm 4 là 15,93 tỷ đồng, nhóm 5 là 27,19 tỷ đồng.
Trích lập dự phòng rủi ro tín dụng chưa chính xác, ngoại trừ các trường hợp 2021 các ngân hàng đã trích lập đầy đủ dự phòng hoặc đã tất toán nợ vay nên KTNN không điều chỉnh tăng trích dự phòng rủi ro tín dụng. (tại PGB 114,46 tỷ đồng, NHCT là 769,48 tỷ đồng, NHHTX 240,99 tỷ đồng), kết quả kiểm toán còn điều chỉnh: tăng chi phí dự phòng tại PGB 4,21 tỷ đồng, NHCT 20,97 tỷ đồng, NHHTX 6,34 tỷ đồng; giảm chi phí dự phòng tại NHCSXH 5,14 tỷ đồng.
Còn sai sót về trình tự, thủ tục cho vay như thẩm định sơ sài; định kỳ chưa đánh giá lại tài sản bảo đảm; thiếu chứng từ giải ngân/tài liệu chứng minh mục đích sử dụng vốn; kiểm tra, giám sát sau cho vay còn sơ sài; gia hạn nợ vượt quá thời gian.
Ngân hàng chính sách (NHCS) còn nhiều trường hợp cho vay vượt hạn mức (cho vay đối với 2 người có cùng 1 hộ khẩu) và cho vay đối tượng không phù hợp với mục tiêu của chương trình, dẫn đến xác dịnh số tiền cấp bù chênh lệch lãi suất và chi phí từ NSNN tăng thêm 0,58 tỷ đồng. Tại NHHTX, hệ thống công nghệ thông tin chưa tự động chuyển nợ quá hạn đối với việc phân loại nợ theo định lượng, chưa có chốt tự động kiểm soát chặt chẽ đối với số liệu dự phòng rủi ro tín dụng.
PVI nhiều khoản đầu tư kém hiệu quả
Công ty mẹ PVI đầu tư tài chính không hiệu quả hoặc hiệu quả thấp, phải trích lập dự phòng cho một loạt khoản đầu tư tài chính gồm: 37,08 tỷ đồng/37,08 tỷ đồng đầu tư cổ phiếu Ngân hàng TMCP Đông Á; 37,33 tỷ đồng/43,5 tỷ đồng khoản đầu tư góp vốn vào Công ty CP Kinh doanh Dịch vụ cao cấp dầu khí; 140,17 tỷ đồng/344,12 tỷ đồng đầu tư bất động sản tại Dự án The Costa Nha Trang.
Bên cạnh đó, KTNN cũng xác định Tổng công ty Bảo hiểm PVI đã đầu tư 200 tỷ đồng trái phiếu Công ty CP Sông Đà Thăng Long từ năm 2010 chưa thu được lãi (mới thu gốc 32,03 tỷ đồng), dự phòng rủi ro đã trích 167,97 tỷ đồng.
Ngoài ra, đơn vị này cũng còn có 2 khoản đầu tư góp vốn 20,9 tỷ đồng vào Tổng công ty Bảo dưỡng, sửa chữa công trình dầu khí và Công ty CP Điện Việt Lào không có lợi nhuận hay cổ tức được chia từ khi nhận bàn giao (năm 2011) của PVI.
Theo KTNN xác định, từ năm từ năm 2015 đến 31/12/2020, Tổng công ty Bảo hiểm PVI đã phải trả 1,97 tỷ đồng phí quản lý 02 khoản đầu tư này cho Công ty Quản lý quỹ PVI.
Cụ thể, tại kỳ được kiểm toán, công ty mẹ PVI còn khoản phải thu 4,73 tỷ đồng của Công ty TNHH MTV Khách sạn Green Plaza Đà Nẵng phát sinh trong giai đoạn năm 2010- 2018.
Ngoài ra, KTNN cũng xác định Tổng công ty Bảo hiểm PVI cũng chưa làm rõ nguyên nhân, trách nhiệm liên quan đến một số khoản công nợ phải thu, tạm ứng lâu ngày không có khả năng thu hồi 8,51 tỷ đồng.