viet-nam-can-lam-gi-de-tro-thanh-nuoc-thu-nhap-trung-binh-cao-truoc-nam-2030-1677741924.jpg
Việt Nam cần làm gì để trở thành nước thu nhập trung bình cao trước năm 2030?

Tại buổi toạ đàm đối thoại chính sách: “Đổi mới thể chế kinh tế tại Việt Nam, hướng tới nước thu nhập có trung bình cao trước năm 2030” do trường Đại học kinh tế Quốc dân (NEU) phối hợp cùng Fraser Institute (Canada) tổ chức ngày 1/3, GS.TS Phạm Hồng Chương, hiệu trưởng trường NEU, cho biết sau hơn 30 năm đổi mới, cho đến nay, Việt Nam cơ bản đã là một nền kinh tế thị trường hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu.

Theo GS.TS Phạm Hồng Chương, Việt Nam đã liên tục xây dựng và điều chỉnh hệ thống pháp luật để phù hợp với các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã ký kết. Một loạt các bộ luật đã được điều chỉnh theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp đầu tư và kinh doanh. Trong đó phải kể đến là Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư.

Những nỗ lực xây dựng thể chế kinh tế thị trường trong suốt chặng đường vừa qua đã góp phần quan trọng vào việc đưa Việt Nam từ một nước có thu nhập bình quân đầu người chỉ khoảng 200 USD vào đầu những năm 1990 tăng lên 3590 USD vào năm 2021. Với mức thu nhập bình quân đầu người như hiện nay, Việt Nam có khả năng gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình cao trước năm 2030 nếu không vướng bẫy thu nhập trung bình thấp.

Tuy nhiên, GS.TS Phạm Hồng Chương cho rằng sự vận hành của nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay đang bộc lộ một số hạn chế.

Thứ nhất, nhà nước vẫn còn can thiệp nhiều vào cơ chế giá thị trường như giá xăng dầu, giá điện, giá vé máy bay, giá y tế,... Những can thiệp này đã bộc lộ nhiều bất cập trong thời gian vừa qua như thiếu hụt xăng dầu, hãng hàng không quốc gia và tập đoàn điện lực bị thua lỗ nặng nề, các bệnh viện công rơi vào tình trạng thu không đủ chi,…

Thứ hai, việc bảo vệ quyền sở hữu vẫn chưa được tốt. Cụ thể, đất đai nhiều nơi vẫn bị thu hồi phục vụ mục đích kinh tế của các tập đoàn bất động sản tư nhân; việc bảo vệ nhà đầu tư thiểu số trong doanh nghiệp vẫn chưa được chú trọng đúng mức; chưa xây dựng đc khung thể chế bảo vệ các loại tài sản mới như tiền kỹ thuật số.

Thứ ba, nhiều loại thị trường hiện đại chưa được hình thành hoặc còn hạn chế sự tham gia của người dân, như các thị trường ngoại hối, thị trường vàng phái sinh, thị trường hàng hoá phái sinh,…

Thứ tư, khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN) vẫn còn lớn, trong khi tiến độ cổ phần hoá các DNNN trong những năm vừa qua bị chững lại.

Thứ năm, hệ thống các văn bản pháp luật vẫn còn chồng chéo, khiến cho việc kinh doanh luôn có nguy cơ vi phạm pháp luật; bản thân các cán bộ nhà nước cũng gặp nguy cơ vi phạm pháp luật nếu hiểu sai các quy định, dẫn đến hiện tượng chậm trễ trong việc xử lý các thủ tục hành chính, gây khó khăn cho doanh nghiệp. Trường hợp các doanh nghiệp bất động sản gần đây là một ví dụ. Rất nhiều dự án không thể triển khai vì vướng thủ tục phâp lý, bị treo nhiều năm, không được giải quyết.

Tại buổi tọa đàm, các đại biểu là các chuyên gia trong và ngoài nước đã cùng nhau trao đổi, thảo luận, phân tích các chiều kích phát triển nền kinh tế thị trường Việt Nam trong mối tương quan với các quốc gia khác dựa trên bộ chỉ số Economic Freedom of the World (EFW) do Fraser Institute của Canada xây dựng.

Song song là thảo luận về việc rà soát thể chế kinh tế vĩ mô của Việt Nam (khung khổ chính sách tín dụng, tỷ giá, tài khoá…) và các thể chế liên quan đến các thị trường nhân tố, đặc biệt là thị trường vốn, để tìm ra các nút thắt có thể cản trở sự phát triển của Việt Nam khi trở thành nước thu nhập trung bình cao. Trên cơ sở đó, đưa ra một số khuyến nghị chính sách để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường Việt Nam.

Tiến sỹ Fred McMahon, trưởng nhóm nghiên cứu về tự do kinh tế tại Viện Fraser, Canada, cho rằng Việt Nam vẫn là một quốc gia tương đối nghèo và đây lại là một “lợi thế”. Điều này giúp Việt Nam sẽ dễ dàng hơn để bắt kịp các nền kinh tế hiện đại, nhờ thúc đẩy các cải tiến và cơ chế mới với chi phí thấp, tiền công thấp mà vẫn lôi kéo được đầu tư.

Theo tiến sỹ Fred McMahon, lợi thế này là “đòn bẩy” cho hạ tầng kinh tế sẽ giúp nâng cao thu nhập đầu người đồng thời tăng năng suất và tăng trưởng kinh tế.

Một lợi thế khác được ông chỉ ra đó là Việt Nam ghi nhận mức tăng trưởng mạnh mẽ với mức trung bình 6% trong vòng 10 năm qua, trong khi các quốc gia giàu hơn sẽ tăng trưởng chậm lại. Các quốc gia khác (như Indonesia, Malaysia, Philippines và Thái Lan) bắt kịp tốc độ tăng trưởng của Việt Nam nhưng "mờ nhạt" dần khi họ không thể cải thiện tự do kinh tế.

“Vì vậy, tự do kinh tế sẽ tạo động lực vượt bẫy thu nhập trung bình, do đó để Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh và trở nên giàu có hơn, chính sách kinh tế sẽ phải trở nên cạnh tranh hơn”, tiến sỹ Fred McMahon nhận định.

Quang cảnh buổi toạ đàm đối thoại chính sách: “Đổi mới thể chế kinh tế tại Việt Nam, hướng tới nước thu nhập có trung bình cao trước năm 2030” 

GS.TS Phạm Hồng Chương cho rằng trong bối cảnh Việt Nam chuẩn bị gia nhập nhóm các nước có thu nhập trung bình cao và với mục tiêu đến năm 2045 trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, việc cần thiết lúc này là phải tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế.

Ông cho rằng đây là thời điểm quan trọng để Việt Nam xem xét, đánh giá thể chế kinh tế thị trường, rà soát thể chế kinh tế vĩ mô của Việt Nam như: Khung khổ chính sách tín dụng, tỷ giá, tài khoá, đặc biệt là thị trường vốn để tìm ra các nút thắt có thể cản trở sự phát triển của Việt Nam khi trở thành nước thu nhập trung bình cao.

Trong khi đó, ông Đinh Tuấn Minh, giám đốc nghiên cứu Trung tâm nghiên cứu giải pháp thị trường cho các vấn đề kinh tế - xã hội, cho rằng cần có sự đột phá ở 2 yếu tố.

Thứ nhất, duy trì đồng tiền tốt bằng cách tiếp tục kiên trì ổn định vĩ mô, đảm bảo lạm phát ổn định ở mức 3-4% trong những năm vừa qua. Đồng thời, cần nghiên cứu xem xét lại chế độ tỷ giá hối đoái, cho phép nhà đầu tư cá nhân tham gia thị trường ngoại hối tại các sàn giao dịch, từ đó cải thiện tiêu chí tự do sở hữu tài khoản ngoại tệ tại ngân hàng.

Thứ hai, cần rà soát lại các hàng rào phi thuế quan theo hướng rõ ràng, minh bạch và ổn định; rà soát lại các quy định về kiểm soát vốn, để thị trường vốn của Việt Nam hấp dẫn hơn nữa nhà đầu tư nước ngoài; mở rộng phạm vi công dân của các quốc gia được miễn visa du lịch vào Việt Nam, cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan,…